Ticker

6/recent/ticker-posts

Tác dụng uống Vitamin C với sức khỏe con người

Năm 1932, người ta phát hiện ra chanh có chứa Vitamin C, loại vitamin mà trong thập kỷ 80 của thế kỷ trước đã được coi là “thần dược cho tuổi xuân”. Người quảng bá nhiệt thành nhất cho nó, nhà hóa học người Mỹ đoạt giải Nobel, Linus Pauling, đã khuyến khích sử dụng liều cao loại vitamin này nhằm chống ung thư và nhồi máu cơ tim.
Những trái cây chứa nhiều Vitamin C
 Ông đã thuyết phục mọi người qua các cuốn sách của mình như “Vitamin C, the Common Cold and the Flu” và “Cancer and Vitamin C” rằng vitamin C bảo vệ khỏi các căn bệnh ung thư, cảm cúm và nhồi máu cơ tim. Nhưng các công trình nghiên cứu của National Institutes of Health (NIH) ở Mỹ lại chỉ ra rằng không có bất cứ bằng chứng đáng tin cậy nào cho thấy vitamin C có tác dụng phòng ngừa ngay chỉ một căn bệnh đơn giản là cảm.

Vitamin C (axit ascorbic) được các nhà nghiên cứu Thụy Sĩ, dưới sự dẫn dắt của ông Tadeusz Reichstein, tổng hợp được. Trước đó người ta gọi nó là thuốc chống thối thịt vì nó phòng ngừa được sự thối rữa, tức là căn bệnh hình thành do thiếu vitamin C. Căn bệnh này những người dân Bắc Âu đã biết từ lâu và họ chữa khỏi bằng hành củ. Vào thời Trung Cổ, bệnh thối thịt đã làm tan rã quân đội của các hiệp sĩ Thánh chiến, còn vào đầu thời hiện đại thì nó trở thành tai họa của lính hải quân. Mãi đến đầu thế kỷ XVIII, ông James Lind, bác sĩ đứng đầu Royal Naval Hospital mới phát hiện ra rằng bệnh thiếu vitamin C có thể chữa được nhờ nước cam vắt và nước chanh vắt. 
Vào năm 1932, các ông William A. Waugh và Charles Glan King, giáo sư của University of Pittsburgh đã tách vitamin C từ quả chanh và chỉ chưa đầy một năm sau công ty dược phẩm Thụy Sĩ Roche đã bắt đầu sản xuất hàng loạt. Từ thời điểm đó, sự thông dụng của Vitamin C đã gia tăng nhanh chóng và sản lượng hàng năm của nó tăng bình quân đến vài tấn. 
Công ty dược phẩm Roche đầu tiên sản xuất viên bổ sung Vitamin C
Mốt sử dụng các loại vitamin dạng viên đã xuất hiện trong thập kỷ 70 của thế kỷ trước khi ông Linus Pauling công bố cuốn sách “Vitamin C, the Common Cold and the Flu”. Nhà khoa học hàng ngày tự mình uống vitamin C trong tất cả các bữa ăn, đã tìm cách thuyết phục mọi người rằng những ai uống mỗi ngày 1 g hợp chất có giá trị dinh dưỡng cao này, bất kể ở lứa tuổi nào, hãn hữu lắm mới mắc các căn bệnh cảm cúm. Ngay trong năm 1996, giáo sư Harri Hemila thuộc Helsingin Yliopisto – một trường đại học ở Hensinki – đã công bố các kết quả nghiên cứu chứa đựng những gợi ý rằng uống 1 g vitamin C hàng ngày có thể giảm nhẹ cả triệu chứng lẫn thời gian kéo dài của bệnh cảm. Nhưng nhà bác học Phần Lan này, trái ngược với ông Pauling, đã nhanh chóng rút lui khỏi các quan điểm của mình. Kết quả các quan sát sau đó của ông cho thấy, vitamin C, giống như vitamin E và beta – caroten, không có bất cứ ảnh hưởng nào đến diễn biến bệnh cảm.
Hơn một chục công trình nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự. Chúng khẳng định một điều rằng việc ép buộc uống quá liều Vitamin, trong đó có vitamin C, là việc làm vô nghĩa, bởi vì khi dùng quá mức, cơ thể không thể hấp thụ hết và chúng không giúp cải thiện sự hành chức của hệ thống đề kháng. Các công trình nghiên cứu trên 400 người được công bố trên tờ Medical Journal of Australia, thậm chí đã chỉ rõ rằng ở những người sử dụng thuốc an thần, những triệu chứng bệnh cảm còn nhẹ hơn ở những người uống vitamin C. 
Nước cam chứa nhiều Vitamin C tự nhiên

Thiếu vitamin C có thể gây triệu chứng mệt mỏi, buồn ngủ, chán chường và đau các khớp. Sự có mặt trong thành phần của vitamin C axit ascorbin xuất hiện trong tất cả các tế bào của cơ thể. Loại axit này rất cần thiết để tạo ra colagen – bạch cầu, thành phần chính của tế bào liên kết. Nó cũng ảnh hưởng đến việc hình thành các tế bào đề kháng, giúp hấp thu chất sắt ở ruột và chống lại sự hình thành nitrozoamin. Nó cũng đẩy nhanh quá trình lành vết thương, vết bỏng và chảy máu lợi.